Cổng thông tin điện xử xã Tam Thăng - Tam Kỳhttps://tamthang.tamky.quangnam.gov.vn/uploads/logo.png
Thứ ba - 10/08/2021 11:538990
Xã Kỳ Anh (nay là xã Tam Thăng) cách trung tâm thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam khoảng 7km về hướng đông bắc, gần quốc lộ 1A.Trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước ác liệt nhất ở chiến trường Quảng Nam những năm 1964-1975 quân dân xã Kỳ Anh đã trường kỳ kháng chiến, anh dũng, sáng tạo trong chiến đấu, bám trụ đánh bại và tiêu diệt nhiều sinh lực kẻ thù làm cho địch “Bạt vía kinh hồn” tính sáng tạo đó được thể hiện qua việc đào Địa đạo trong lòng đất, một thành đồng lũy thép, Địa đạo của lòng dân đã góp phần đấu tranh thắng lợi giải phóng miền Nam là mốc son chói lọi trang sử vàng Quảng Nam “Trung dũng kiên cường trận đầu diệt Mỹ”.
Năm 1994 xã Tam Thăng tự hào được nhà nước ta phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Năm 1997 Địa đạo Kỳ Anh được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia. 1. Hoàn cảnh ra đời Tháng 8 năm 1964, tỉnh ủy Quảng Nam ra nghị quyết phát động quần chúng khởi nghĩa giải phóng đại bộ phận nông thôn đồng bằng, trong đó trọng điểm là giải phóng vùng đông quốc lộ I và vùng cát của các huyện. Thực hiện chủ trương đó, Đảng bộ Tam Kỳ đã chỉ đạo quân và dân Kỳ Anh vùng lên phá ấp chiến lược, giải phóng quê hương Kỳ Anh vào tháng 9/ 1964. Tháng 5 năm 1965, để cứu vãn sự sụp đổ của chiến lược“chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ vội vàng xua quân vào miền Nam Việt Nam, cùng với quân ngụy và chư hầu, chúng thực hiện chiến lược “Bình định nông thôn”, “Tiêu diệt và bình định” mở rộng chiến dịch “về làng” bắt bớ, càn quét, đánh phá, lấn chiếm vùng giải phóng. Đối với xã Kỳ Anh là xã được giải phóng và có phong trào cách mạng hoạt động mạnh nên địch tổ chức hành quân càn quét dữ dội, lùng ráp vây bắt nhiều chiến sĩ cách mạng và người dân vô tội bị tra tấn, thủ tiêu. Trước tình hình đó, cùng với cả huyện, tỉnh; Đảng bộ và nhân dân Kỳ Anh quyết tâm thực hiện phương châm “một tấc không đi, một ly không rời”, quyết “bám đất, bám làng” tận dụng mọi thời cơ đánh địch. Nhưng là một xã vùng cát, địa hình địa vật bất lợi cho việc tác chiến, ẩn nấp lâu dài, địch càn sẽ phát hiện và tiêu diệt lực lượng ta dễ dàng. Từ thực tế và trước yêu cầu của cách mạng ở địa phương lúc bấy giờ, muốn giữ vững căn cứ địa, chống lại sự đánh phá, lấn chiếm của kẻ thù bảo tồn lực lượng và làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng, khó khăn nảy sinh sáng kiến, không còn cách nào khác là phải đào hầm bí mật, đào Địa đạo làm nơi ẩn quân, dấu quân an toàn, nơi chuẩn bị lực lượng, vũ khí trước khi đánh địch. Địa đạo Kỳ Anh bắt đầu đào từ tháng 5/1965 và hoàn thành vào năm 1967. Tổng chiều dài Địa đạo khoảng 32 km, chiều rộng từ 0,5- 0,8 mét, chiều cao khoảng 0,8-1mét, chiều dài các đoạn Địa đạo tùy theo địa thế của mỗi thôn, (trong lòng địa đạo có nơi rất hẹp, nhằm đề phòng khi địch phát hiện miệng Địa đạo, dùng hơi cay hay lựu đạn ném xuống, ta dễ dàng bịt kín ngăn đoạn còn lại để thoát tránh thương vong). Tuy nhiên đầu năm 1966 Địa đạo mới hình thành, chưa nối tiếp liên hoàn. Khi địch càn vào làng do bị lộ miệng hầm tại vườn nhà ông Khanh địch kêu gọi đầu hàng nhưng cán bộ, dân quân chống trả ngoan cường, quyết liệt, địch dã man bơm chất độc xuống hầm và 11 cán bộ, dân quân anh dũng hy sinh. Địa đạo hình dạng ô bàn cờ, quanh co uốn khúc, nhiều ngõ ngách, chạy dài men theo các lùm cây, nhiều đoạn được đào xuyên qua nền nhà dân, qua giếng nước, gian bếp trãi khắp thôn xóm trong toàn xã, trong đó qui mô và sử dụng Địa đạo có hiệu quả nhất là ở thôn Thạch Tân và thôn Vĩnh Bình. Bởi nơi đây ngoài các yếu tố hỗ trợ tự nhiên như: Cây cối rậm rạp, kênh mương, đình, nhà dân liền kề, dưới tầng đất cát trắng còn có một lớp đất cóc ( đá ong), khó bị sụp lún. Dụng cụ đào gồm: cuốc, xẻng ngắn cán, xà beng, và mủng, thúng, trạt để đem đất đổ đi nơi khác. Vì là nơi gần sát với tai mắt của địch nên công việc tiến hành vào ban đêm và bí mật, khẩn trương. Đất đào đem đắp vào những hầm trú ẩn bom đạn của dân, nền nhà mới, đắp bờ ruộng hoặc đem ra sông đầm đổ, tránh sự phát hiện của địch. Miệng hầm nằm trong các nhà dân, gian bếp, chuồng bò, đình, bụi tre, giếng nước, gốc cây và được ngụy trang cẩn thận. Địa đạo có hầm cứu thương, hầm tác chiến, hầm chỉ huy, hầm chứa lương thực, thực phẩm ..., lực lượng đào Địa đạo là lực lượng tổng hợp, là sức mạnh dân quân: Bộ đội, du kích địa phương, phụ nữ, nông dân, thanh thiếu niên. 2. Vai trò của địa đạo. Từ khi Địa đạo hình thành lực lượng của ta như 70, 72 tỉnh đội, V12, V16, V18 Huyện đội ít bị tổn thất trước sự càn quét đánh phá ác liệt bằng bom, đạn và phi pháo của kẻ thù. Địa đạo là thành trì vững chắc giúp quân dân Kỳ Anh trụ bám đánh địch mỗi khi chúng càn quét, bảo tồn lực lượng, tổ chức phản công, tập kích địch bất ngờ và giữ vững địa bàn xã Tam Thăng. Địa đạo là nơi ẩn nấp của các cán bộ “bất hợp pháp” bám trụ sát dân, nắm chắc từng địa bàn được phân công phụ trách, đáp ứng được yêu cầu đánh địch, bảo tồn lực lượng, giữ thế hợp pháp giúp hai lực lượng hợp pháp và bất hợp pháp song song tồn tại hỗ trợ lẫn nhau. Đồng thời địa đạo Kỳ Anh là nơi tổ chức sơ cấp cứu thương binh, nơi tiếp tế lương thực cho lực lượng vũ trang quân khu, tỉnh đội góp phần lập chiến công hiển hách oai hùng. Dưới đây là những kỳ tích lịch sử vẻ vang gắn liền những hàng cây, đình làng, giếng nước xã Tam Thăng. Đình Thạch Tân, thôn Thạch Tân là một ngôi đình cổ, gắn liền với việc khai canh, khai cơ của các bậc tiền nhân. Lợi dụng là nơi thiêng liêng của làng và cây cối rậm rạp, ít người chú ý, ta dùng làm nơi hội họp, trao đổi tin tức. Dưới nền đình là căn hầm khá rộng, ăn thông với địa đạo thoát ra mương nước và lùm cây Rõi, dùng làm nơi sơ cứu thương bệnh binh, tích trữ lương thực, thực phẩm của các xã phía nam huyện Thăng Bình và các xã vùng đông Tam Kỳ chuyển về trước khi chuyển lên cho vùng tây và bắc Tam Kỳ. 3. Miệng hầm địa đạo Thạch Tân thoát ra mương nước Trước sự tấn công anh dũng của quân dân Kỳ Anh đã gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề. Địch bắt đầu tổ chức phản công càn quét, dùng dây xích cột vào cột đình cho xe tăng kéo nhằm làm đổ đình, song trước sự uy nghi của đình cũng như đình đã được hóa thân bởi sức mạnh bám trụ của nhân dân nên địch không tài nào phá nổi, hiện cột đình vẫn còn lằn vết tích dây xích đau thương đó. 4. Hầm nhà cụ Thuyết, địa đạo thông ra giếng nước nhà cụ Thuyết và sông Đầm. Nhà ông Phạm Sĩ Thuyết (Vĩnh Bình) dưới nền nhà là căn hầm bí mật sâu 2m, rộng 0.5m, dài 0,7m, dưới miệng hầm có nhiều ngách đi vào Địa đạo ăn thông với giếng nước và thoát ra mương dẫn nước Sông Đầm. Hệ thống Địa đạo khu vực này ngoài hầm bí mật còn có hầm công khai với Địa đạo nên thường được sử dụng đánh địch trực tiếp mỗi khi chúng càn quét, nếu chẳng may bị địch phát hiện thì thoát vào Địa đạo. Theo các nhân chứng tại thôn Vĩnh Bình kể lại: Đồng chí Bùi Luôn (Mười Luôn) Huyện ủy viên huyện Bắc Tam Kỳ, đồng chí Phạm Biên cơ sở Đảng là người đã chỉ đạo và chọn nhà ông Phạm Sĩ Thuyết(nguyên là quân dân du kích, liệt sĩ) để đào hầm bí mật, bởi ông Thuyết được giác ngộ cách mạng, được cơ sở Đảng tin tưởng. Một chiến công nổi bậc nhất là tại miệng hầm công khai sau vườn nhà mẹ Thân, vào năm 1967 đơn vị du kích thôn Vĩnh Bình do đồng chí Châu Thanh Truyền (AHLLVTND) chỉ huy đã đánh và tiêu diệt Bộ chỉ huy tiểu đoàn và 2 đại đội của địch, trong đó 1 đại đội Cộng hòa (Tiểu đoàn 2- trung đoàn 5), một đại đội thám kích do tên thiếu tá Trương Châu chỉ huy. Giếng ông Kỳ (Vĩnh Bình) nơi lấy nước dùng cho sinh hoạt đã biến thành miệng hầm địa đạo ăn thông với kênh mương gần đấy, tiện việc cảnh giới và ẩn nấp. Thông qua giếng ông Kỳ nhân dân đã kịp thời báo hiệu cho lực lượng ta ở dưới hầm biết được tình hình, diễn biến của địch còn phục kích hay đã rút về đồn, nhiều hay ít....Hình thức báo hiệu đơn giản là số lần lên xuống, mạnh hay yếu của nhịp gàu múc nước. Cách giếng ông Kỳ hơn 300m là Bãi Sậy Sông Đầm, địa hình đầm, sông, nước, sậy mọc um tùm cao lút đầu người, quanh đầm cây cối rậm rạp, đầm lầy đầy thức ăn tôm, lươn, cá, rau...tươi sống góp phần phục vụ đời sống của quân dân Kỳ Anh trong lúc khó khăn, đồng thời Bãi Sậy Sông Đầm là nơi che chở cho dân quân du kích góp phần hỗ trợ cùng Địa đạo, ngăn chặn địch tập kích bất ngờ vào làng. Tính độc đáo, sáng tạo của xã Kỳ Anh lúc bấy giờ còn thể hiện ở chỗ : Quanh làng nhân dân trồng tre dày đặc kết hợp một trận địa chông, mìn trong khu vực chiến đấu và một hệ thống kênh mương dẫn nước quanh làng, tạo thành một trận địa làng chiến đấu khá kín cho việc ẩn nấp và đánh địch của quân và dân Kỳ Anh. Nhờ có Địa đạo Kỳ Anh mà nhân dân xã Tam Thăng trong những năm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước (1965- 1975) đã giữ vững được vùng giải phóng, nuôi giấu, che chở lực lượng cách mạng và làm bàn đạp mở rộng tấn công địch. Từ địa đạo quân ta bất thần xuất kích đánh địch rồi bí mật rút lui, gây cho chúng thiệt hại nặng nề, tạo cho địch hoang mang hoảng sợ. Trong 10 năm chiến tranh giữ nước đau thương, gian lao mà anh dũng ấy quân và dân Kỳ Anh đánh địch 1052 trận, loại địch ra khỏi vòng chiến đấu 3751 tên, trong đó 55 tên Mỹ, diệt 57 tên ác ôn, bắt sống 150 tên, diệt gọn 5 trung đội dân vệ và biệt lập, một đại đội biệt kích, một trung đội Mỹ, đánh thiệt hại nặng 6 trung đội dân vệ, 3 đại đội và 3 tiểu đoàn Cộng hòa, bắn cháy 3 máy bay, 15 xe quân sự, thu 500 súng các loại. Địa đạo Kỳ Anh là một công trình lịch sử, là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là một trong nhiều điển hình sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Mỗi tấc đất, mỗi hàng cây, ngõ xóm của Địa đạo đều thắm đậm máu đào, mồ hôi, công sức và chiến công của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ xã Kỳ Anh. Địa đạo Kỳ Anh là dấu ấn lịch sử của thời kỳ đấu tranh chống Mỹ cứu nước, nó thể hiện ý chí quyết tâm và tinh thần sáng tạo, vì độc lập tự do, vì sự sống còn của quê hương của Đảng bộ, quân và dân Kỳ Anh. Địa đạo Kỳ Anh nói riêng, làng chiến đấu Kỳ Anh nói chung phản ánh rõ nét thế trận chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Bảo tồn và phát huy giá trị di tích này chính là sự giữ gìn và trân trọng lịch sử hào hùng của cha ông một thời “đánh Mỹ và thắng Mỹ”, đồng thời là nơi giáo dục truyền thống cách mạng bằng những giá trị lịch sử, hiện vật nguyên gốc gây cảm xúc mạnh mẽ hoàn toàn khác với những gì chỉ cảm nhận qua sách vở. Để có được một Kỳ Anh giàu mạnh trong tương lai gần, trên cơ sở tiềm năng thế mạnh của địa phương cần phải bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị truyền thống lịch sử của di tích này, gắn liền với phục hồi làng chiến đấu, phục hồi Sông Đầm Bãi Sậy tạo nguồn thủy sản đa dạng phong phú, phát triển ngành nghề dệt chiếu, đan lát truyền thống, xây dựng các sản phẩm du lịch, cảnh quan môi trường xanh- sạch- đẹp, biến Kỳ Anh xưa – Tam Thăng nay thành nơi du lịch hấp dẫn, ngày càng đón nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan. Phát triển kinh tế gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di tích, tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống nhân dân vùng này ngày càng ấm no hạnh phúc là việc làm cần thiết hợp với lòng dân phù hợp với yêu cầu phát triển, hội nhập Quốc tế. Quyết tâm xây dựng vùng cát Tam Thăng anh hùng trong chiến đấu thành anh hùng trong công cuộc xây dựng quê hương.